LƯỢC SỬ VÙNG ĐẤT KAMPUCHEA KROM - Phần Năm- Quá trình xâm lược của Yuon

Sau khi thôn tín được Chiêm Thành (Champa), Yuon bt đu đy mnh công cuc nam tiến, đánh chiếm đt nước Khmer.

Trong khong nhng năm 1600, Yuon b chia ct thành 2 x vi chúa h Trnh cai qun x min Bc, gi là Đàng Ngoài, riêng chúa h Nguyn, cai qun x Champa, gi là Đàng Trong. Thi đó, đt nước Yuon đi tên là nước Annam. Chiến tranh Trnh – Nguyn cũng to cơ hi cho Yuon vào sinh sng trên đt Champa và lãnh th Đông Nam ca Khmer[1].

Cũng trong thi gian này, Vua Khmer là Chey Chettha Đ Nh (Còn gi là Chey Chetsda Đ Nh) kết hôn vi công n Nguyn Phúc Ngc Vn, là con ca Chúa Yuon, Nguyn Phúc Nguyên, còn gi là Sãi Vương. Bà này có công xin vi vua Khmer cho Yuon được vào tm trú vùng Prey Nokor và vùng Kampong Krabey (Yuon gi là Bến Nghé) đ lp luyn quân s chng Trung Quc, ni trong 5 năm s tr li đt cho người Khmer. Năm 1623, chúa Yuon Đàng Trong phái s đoàn đến xin vua Chey Chetsda Đ Nh cho phép Yuon m mt cơ s thương mi và ph trách thu thuế hi quan khu vc cng Prey Nokor.
Indochina thời Trịnh - Nguyễn


Sau khi vua Chey Chetsda băng vào năm 1628, Yuon sinh sng đy ry khu vc Prey Nokor, Baria (Youn gi là Bà Ra), Donnai (Yuon gi là Đng Nai), Toul Tamok (Yuon gi là Tây Ninh) và c đt nước Champa. Riêng tnh Kampup Srokar Trey (Nay là khu vc phía Bc tnh Đng Nai) và Preah Sourkea (Yuon gi là Vũng Tàu), Yuon bt đu chiếm lĩnh vào năm 1657. Trong khon gia t năm 1756 đến năm 1775, Yuon cũng bt đu chiếm ly mt s đa phương các tnh Phsar Daek (Yuon gi là Sa Đéc), Long Haor (Yuong gi là Long H - Vĩnh Long), Mort Jrouk (Yuon gi là An Giang) vào năm 1757 ; Tnh Preah Trapeang (Yuon gi là Trà Vinh) vào năm 1758, và tnh Khleang (Yuon gi là Sóc Trăng), Polleav (Yuon gi là Bc Liêu) và Teurk Khmau (Yuon gi là Cà Mau) vào năm 1775.

Đến thi ca Vua Angk Chant (1806 – 1834), Yuon tiến hành xy dng tri quân đi Annam gn Phnom Penh, và phong cho Trương Minh Ging làm quan cai tr đt Khmer (Lúc này Yuon gi đt Kampuchea Leur là Trn Tây, gi Phnom Penh là Nam Vang). Năm 1834, vua Khmer là Angk Chant băng, li dng cơ hi này, vua Yuon Minh Mnh là con ca Gia Long, đưa Công chúa Angk Mey, là con ca vua Angk Chant lên làm N Vương. N Vương Angk Mey hoàn toàn không có quyn lc, Yuon bt đu công cuc Yuon hóa người Khmer.

Yuon cho thay đi tên người và tên đa danh sang tiếng Yuon vi ý đ biết đt người Khmer thành đt đai ca người Yuon (Như Yuon đã làm vi Champa). Vua Yuon cũng cho hàng chc quan thn khác đến giúp vic cho Trương Minh Ging qun lý người Khmer, ch yếu là qun lý thương mai, thuế má, và đt đai.






[1] Trong lch s, vic Yuon dùng mâu thun ni b đ vì mc tiêu tôn tín đt nước khác xy ra không phi là hiếm. Chính Yuon Serey Yuon Vit Nam Cng Hòa, và Yuon Cng sn cũng thc hin kế mâu thun ni b hòng ly được đt Kampuchea Krom và tiến đến chiếm c Lào và Kampuchea Luer Chúng tôi s có bài phân tích vn đ này.


15 Responses to "LƯỢC SỬ VÙNG ĐẤT KAMPUCHEA KROM - Phần Năm- Quá trình xâm lược của Yuon"

  1. Nhân danh dân tộc Đại Việt yêu chộng hòa bình và cũng rất rộng lượng.

    Chúng tôi rất vui lòng di dời toàn bộ dân cư ra khỏi vùng đất xưa của người Khmer các bạn. Chúng tôi cũng sẽ để lại toàn bộ tài sản, nhà cửa, các trang thiết bị, cơ sở vật chất...

    Chúng tôi chỉ có 1 điều kiện duy nhất: người Hán cũng làm tương tự với vùng đất của tổ tiên chúng tôi từ bờ nam sông Trường Giang trở xuống.

    Kính gửi.

    ReplyDelete
    Replies
    1. Rất hay! người Hán nếu làm vậy thì người Kinh cung sẽ làm thế !

      Delete
    2. Hài hước chỉ lấy cái truyện hoang đường, huyền thoại về Kinh Dương Vương mới được chế sử nhà Lê từ thế kỷ XV mà không có một chút khoa học nào hết cũng nhận vơ. Chết cười!!!

      Delete
  2. thông tin không đúng sự thật

    ReplyDelete
  3. Mỗi một khu vực, một quốc gia, một vùng…đều có lịch sử hình thành và phát triển riêng. Vùng đất Nam Bộ của Việt Nam cũng thế! Tuy là một vùng đất mới, hình thành sau, nhưng với sự phát triển rất nhanh thì Nam Bộ đã dần khẳng định được vai trò của mình trên tất cả các lĩnh vực từ kinh tế, khoa học- kĩ thuật, giáo dục, y tế, cho đến văn hóa. Để hiểu thêm về vùng đất Nam Bộ, chúng ta hãy cùng tìm hiểu về lịch sử hình thành của nó.

    Cách đây khoảng 4000 -2500 năm thì văn hóa và cư dân văn hóa Đồng Nai là cư dân bản địa. Họ chính là tổ tiên của một số cư dân bản địa ngày nay như : stiêng, Chơ-ro, Mạ...

    Từ thế kỉ I đến thế kỉ VII thì địa bàn Nam Bộ ngày nay thuộc Vương quốc Phù Nam và cư dân Phù Nam – chủ nhân của nền văn hóa Óc Eo. Phù Nam chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ và có quan hệ mật thiết với nền văn hóa Mã Lai đa đảo.

    Phù Nam là một quốc gia ven biển mà trung tâm là vùng Nam Bộ ngày nay. Cư dân của họ chủ yếu là người Mã Lai đa đảo, có truyền thống hàng hóa và thương nghiệp.

    Vào thế kỉ V tại vùng nam Lào và Biển Hồ, một nhà nước mới được thành lập là Chân Lạp. Cư dân là người Môn cổ và Khmer cổ. Họ sinh sống chủ yếu bằng nghề nông. Chân Lạp là một thuộc quốc của Phù Nam.

    Đến cuối thế kỉ thứ VI thì Vương quốc Phù Nam bắt đầu suy thoái sau một thời kì phát triển rực rỡ và thịnh vượng. Lợi dụng thời cơ hiếm có này, Chân Lạp đã tấn công Phù Nam và chiếm được một phần lãnh thổ - tương đương với vùng đất Nam Bộ ngày nay.Sau khi chiếm xong, Chân Lạp đã đặt tên cho vùng đất mới này là Thủy Chân Lạp để phân biệt với Lục Chân Lạp – nơi hình thành nhà nước Chân Lạp sơ khai. Tuy nhiên việc cai quản vùng đất mới này đối với Chân Lạp là vô vàng khó khăn bởi lúc bấy giờ dân số người Khmer rất ít mà quá trình khai khẩn lại cần nhiều thời gian và sức lực. Cuối cùng việc cai quản vùng đất Thủy Chân Lạp được giao lại cho vua và những người thuộc dòng dõi của Phù Nam đảm trách.

    Chân Lạp tiếp thu văn hóa Phù Nam và chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ giống như người Phù Nam. Lãnh thổ của Chân Lạp gồm hai phần – Lục Chân Lạp thuộc địa phận Campuchia và Thủy Chân Lạp thuộc địa phận Nam Bộ ngày nay.

    Từ thế kỉ VIII đến thế kỉ XII, vùng đất Thủy Chân Lạp bị bỏ hoang, không có dấu vết của con người cư trú. Phải từ khoảng đầu thế kỉ XIII, một số ít người Khmer đến đây sống theo từng nhóm nhỏ thì nơi này mới bắt đầu có dấu vết của con người cư trú. Rồi đến thế kỉ XVI, XVII cư dân Việt mới từ Đàng Trong, sau đó từ miền Trung rồi miền Bắc vào lập nghiệp ngày một đông tại Nam Bộ. Như vậy, có thể kết luận người Việt đến Nam Bộ sau người Khmer vài thế kỉ.

    Có nhiều người cho rằng: “ Phù Nam và Chân Lạp thực chất là một”. Đó là một ý kiến hoàn toàn sai, bởi Chân Lạp và Phù Nam là hai đất khác nhau, hai bộ phận dân cư khác nhau và hai nền văn hóa khác nhau.

    Nhắc đến lịch sử hình thành vùng đất Nam Bộ có hai móc thời gian đáng nhớ, đó là:

    + Năm 1698, Chúa Nguyễn cử lễ Thành Hầu là Nguyễn Hữu Cảnh vào nam lập Phủ Gia Định.

    + Năm 1757, Việt Nam hình thành đến Mũi Cà Mau và được xác lập chính thức chủ quyền. Điều này được công nhận qua nhiều văn bản có giá trị pháp lí quốc tế như:

    • Hiệp ước: 12/1845, 1846, 1862, 1874.

    • Hiệp định : Giơ-ne-vơ – 1954 , Paris – 1973.

    Và công khai hoang vùng đất Nam Bộ lớn nhất thuộc về người Việt chúng ta…

    => Nam Bộ đã được người Việt và các dân tộc bao đời khai phá, khẩn hoang, xây dựng nên bằng mồ hôi, nước mắt và cả xương máu. Đây không chỉ là vùng đất thiêng liêng của tổ quốc, thuộc chủ quyền của đất nước mà còn là cả một lịch sử hào hùng.

    ReplyDelete
  4. cố gắn đòi được tý nào hay tý ấy, đời này không được thì để đời sau, bọn Cam bốt hết bị Đại Việt rồi đến bọn Trung cẩu nó xỏ mũi thôi, cố mà sống hòa bình yên ổn mà làn ăn đi

    ReplyDelete
  5. " Luật là của kẻ mạnh" - Adolf Hitler

    ReplyDelete
    Replies
    1. " Khmer Krom mãi mãi là kẻ yếu" - Thạch Settha

      Delete
    2. " Nam bộ vĩnh viển là của Việt Nam" - Mr.Ban Ki Moon - Tổng thư ký liên hiệp quốc

      Delete
  6. "Người Miên nên biết điều, tu chí làm ăn, đừng nên ăn cháo đái bát" - Obama

    ReplyDelete
  7. - Trang web này kích động hận thù, bạo lực - rồi sẽ nhận được hận thù, bạo lực từ người "Youn".
    - Trang web này gây chia rẻ, mất đoàn kết, tuyên truyền sai sự thật, dối trá, bịa đặt, mị dân - rồi sẽ nhận được "Luật từ kẻ mạnh hơn" của người "Youn".

    - Ta chính là "Tân Phát Xít VN", Ta không phải là những người CSVN già nua. Đọc trang web này, Ta lập tức cho nghỉ việc không cần có lý do 2 công nhân gốc Khmer Trà Vinh trong Công ty Ta mà Ta đã tin tưởng cho làm hơn 3 năm qua.
    - Ta chính thức Tuyên chiến với Khmer Krom và Ban Tin tức Khmer Krom trên mọi phương diện kể từ đây.
    - Câu nói bất hủ của ngài Adolf Hitler đáng kính "Luật là của kẻ mạnh hơn" sẽ được Ta vận dụng triệt để đối với Khmer Krom.

    Xin trân trọng chào ra mắt Ban Tin tức Khmer Krom - "Tân Phát Xít VN"

    ReplyDelete
  8. Lý cớ đầu tiên là đất đai. Tổ chức Khmer Krom không ngừng tố cáo Việt Nam chiếm vùng đồng bằng châu thổ sông Cửu Long của người Khmer. Củng cố lý cớ này là sự hiện diện của khoảng 500 đền đài Khmer trên khắp châu thổ. Đây là vấn đề rất được bàn cãi của những chuyên viên và những nhà nghiên cứu lịch sử, vì sự thật không hẳn như vậy.

    Về điểm này tưởng cũng nên nhắc lại một vài dữ kiện địa lý-lịch sử. Cách đây hơn 300 năm, đồng bằng sông Cửu Long vẫn còn là một vùng sình lầy hoang dại, đầy muỗi mồng và rắn độc nên ít người dám đến sinh cư lập nghiệp, trừ khi bị bắt buộc như những người trốn chạy những cuộc ruồng bắt nô lệ thời đế quốc Angkor.

    Những người này sống tập trung trên những vùng đất cao để tránh lụt lội, gọi là giồng, và sinh sống bằng nghề làm rẫy. Không có tư liệu nào trong Văn khố hoàng gia Khmer (Chroniques royales khmères) nhắc đến sự triều cống của những nhóm dân cư sinh sống trên đồng bằng châu thổ sông Cửu Long (Mekong).

    Trong thế kỷ 17, nội chiến và tranh chấp nội bộ giữa các vương tôn buộc những phe tranh chấp tìm sự hỗ trợ của những thế lực mạnh hơn để triệt hạ đối thủ hay để được bảo vệ. Đó là trường hợp của vua Jayajettha II (1619-1627) kết nghĩa với chúa Nguyễn để được tiếp cứu khi bị Xiêm La tấn công. Bù lại, Jayajettha II nhượng cho Sãi vương quyền khai thác lãnh thổ Prei Nokor trong vòng 5 năm để làm nơi thu mua và vận chuyển thực phẩm ra miền Trung. Sau nhiều lần đánh bật quân Xiêm ra khỏi lãnh thổ Chân Lạp trong những năm 1622-1623, việc thu hồi hai nhượng địa Prei Nokor và Kompong Trabei không còn đặt ra nữa, vì vua Khmer rất cần sự hiện diện của quân Việt trên lãnh thổ của mình.

    Phải chờ đến năm 1679, khi hai vị tướng nhà Minh là Dương Ngạn Địch và Trần Thượng Xuyên) cùng với hai phó tướng Hoàng Tiến và Trần An Bình, với hơn 3.000 quân và 50 chiến thuyền, xin tị nạn và được chúa Nguyễn cho vào khai thác những vùng đất hoang miền Đông Nam Bộ. Tại đây người Minh Hương đã cùng những di dân Việt khẩn hoang, xây nhà, lập chợ, dựng đình. Với thời gian, những khu đất mới này trở nên trù phú và thu hút đông đảo di dân khác tới, kể cả người Khmer trong nội địa. Năm 1698, vùng đất Sài Gòn – Gia Định, tức miền Tây Nam Bộ, chính thức được chúa Nguyễn xác lập chủ quyền.

    Năm 1671, một quan nhân nhà Minh khác tên Mạc Cửu cùng với 400 người đổ bộ lên vùng đất hoang vu trong vịnh Thái Lan và xin thần phục vương triều Khmer. Năm 1681, vua Jayajettha IV cho Mạc Cửu khai thác vùng đất dọc bờ biển phía nam Campuchia ngày nay, gọi là Căn Khẩu, nhằm ngăn chặn những cuộc tấn công của hải tặc. Sau nhiều lần bị hải tặc Xiêm La đánh phá và không được vua Khmer hỗ trợ, năm 1724 Mạc Cửu xin thần phục chúa Nguyễn, vùng đất Căn Khẩu đổi tên thành Long Hồ dinh, sau này là Hà Tiên. Con của Mạc Cửu là Mạc Thiên Tứ đã tận tình giúp các vua Khmer đánh trả quân thù để bảo vệ ngôi báu, sau mỗi chiến công các vua Khmer trao tặng đất đai để tưởng thưởng. Năm 1759, toàn bộ lãnh thổ đồng bằng sông Cửu Long chính thức được sát nhập vào lành thổ nhà Nguyễn.

    Những giải thích dài dòng này để nói lên một sự thật các triều vương Khmer không hề quan tâm đến vùng đất sình lầy đồng bằng châu thổ sông Cửu Long, khi có cơ hội là sẵn sàng trao tặng cho những người đã giúp họ giữ được ngôi báu. Dựa vào yếu tố này, có thể nói người Khmer chưa bao giờ làm chủ đồng bằng châu thổ sông Cửu Long mặc dù đã hiện diện trước đó.

    Lý cớ thứ hai là pháp lý. Dưới thời bảo hộ Pháp (1863-1953), các vị vua Khmer đã nhiều lần yêu cầu hay van nài Pháp giao lại lãnh thổ Nam Kỳ cho Hoàng gia Khmer (thư vua Ang Duong gởi cho hoàng đế Napoléon III ngày 25/11/1856, cuộc gặp mặt giữa vua Norodom (cha) và Toàn quyền Đông Dương, tướng de La Grandière, năm 1864). Nhưng người Pháp từ chối bởi một lý do giản dị là chính nhà Nguyễn đã giao phần đất này cho Pháp năm 1862 và sau đó năm 1874 chứ không phải các vua Khmer, hơn nữa khi ký Hiệp ước bảo hộ vương quốc Cambốt năm 1863, hoàng gia Khmer không hề đề cập tới phần lãnh thổ phía nam, mà người Pháp gọi là Cochinchine (miền Nam Việt Nam).

    ReplyDelete
  9. Sự thật là thế nào?

    Người Khmer Krom thường viện dẫn những lý do lịch sử và văn hóa để chứng minh chủ quyền của họ trên lãnh thổ miền Nam. Cách tiếp cận này tuy hợp lý nhưng không đúng. Hợp lý vì những nhóm dân cư bản địa đầu tiên trên vùng đất này là con cháu những người Khmer trốn chạy các cuộc vây bắt nô lệ để xây dựng đền đài quanh khu vực Seam Reap và Battambang từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ 14, và sau đó là những cuộc nội chiến hay tấn công của người Thái từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 18.

    Nhưng không đúng vì các vương triều Khmer chưa bao giờ làm chủ khu vực đồng bằng sông Cửu Long như thường tuyên bố.

    Nhắc lại, đế quốc Angkor trong thời cực thịnh nhất, từ thế kỷ 8 đến thế kỷ 12, là một đế quốc lục địa. Các trung tâm chính trị và tôn giáo được thiết lập :

    – về phía tây, quanh khu vực phía bắc hồ Tonlé Sap (Battambang, Siem Reap), sông Chao Phraya và lưu vực hai sông Menam và Irrawaddy, mà những đền đại nổi tiếng là Angkor Wat và Angkor Thom được xếp vào di dản nhân loại ;

    – về phía đông, từ vùng trung lưu sông Mekong (Kompong Cham) tới khu vực phía nam hồ Tonlé Sap (Biển Hồ), Longvek, Udong, Kampong Cham và Banteay Prey Nokor (Gia Định). Sau khi đế quốc Angkor bị Xiêm La xóa tên, năm 1439 vua Ponhea Yat bỏ chạy về Wat Phnom Daun Penh (Phnom Penh) và thành lập kinh đô.

    – Vùng phía nam (đồng bằng châu thổ sông Cửu Long), cho đến nay chưa tìm thấy dấu ấn cai trị của vuơng triều Khmer.

    ReplyDelete
  10. Tại sao đi đến tình trạng này?

    Có nhiều lý giải, nhưng giải thích chính vẫn là các dân tộc Đông Dương là nạn nhân của chính sách chia để trị của người Pháp trong suốt thời gian đô hộ và bảo hộ.

    Chế độ thực dân Pháp là thủ phạm kích thích sự thù ghét người Việt Nam của những dân tộc khác. Đọc lại những tài liệu và sử sách viết về người Việt Nam, không một tác giả người Pháp nào không nói Việt Nam là một dân tộc bành trướng, lịch sử Việt Nam là lịch sử thôn tính những dân tộc yếu kém hơn. Họ viện dẫn kinh nghiệm mất đất và mất văn hóa của người Chăm, người Khmer Nam Bộ, người Thượng trên Tây Nguyên…

    Dưới thời Pháp thuộc, Đông Dương bị chia thành 5 vùng, trong đó Việt Nam bị cắt ra làm ba miền (Bắc Trung Nam) để hạn chế người miền này tiếp xúc với người miền kia, và họ đã phần nào thành công. Sau khi Pháp rời khỏi Việt Nam, sự hợp tác giữa các dân tộc Đông Dương đã rất khó khăn và phải trải qua nhiều cuộc chiến đẫm máu để giải quyết sự thống nhất. Vấn đề tồn đọng còn lại là xây dựng niềm tin giữa các dân tộc và giữa người Việt Nam với nhau.

    Nếu chịu khó quan sát, tâm lý bài Việt Nam thường xuất phát từ những cấp lãnh đạo hay trí thức do Pháp đào tạo : Sihanouk, Pol Pot, Sam Rainsy, Sarin Chhak…

    Đầu tàu của chính sách bài Việt là quốc vương Norodom Sihanouk, đứa con tinh thần của chế độ thực dân Pháp. Từ lúc còn tấm bé ông đã được người Pháp nuôi dưỡng và đã hấp thụ tất cả những gì mà người Pháp muốn truyền bá : chống Việt Nam. Trong suốt thời gian trị vì, không hiểu vì lý do gì nhà vua Sihanouk đã liên tục chống phá trực tiếp hay gián tiếp các chính quyền miền Nam Việt Nam, và chính quyền cộng sản Việt Nam sau 1975. Nhà vua sẵn sàng liên minh hay ủng hộ với mọi phe phái, kể cả Khmer Đỏ, để chống Việt Nam.

    Sihanouk còn đào tạo ra được một thế hệ bài Việt tiếp nối, đặc biệt là Sarin Chhak, tác giả “Những vùng biên giới của Cambodge” năm 1965. Dựa theo tài liệu này, đầu năm 1967, Sihanouk chính thức công bố khu vực biên giới Campuchia-Việt Nam, theo đó tỉnh Đắc Lắc, toàn khu hữu ngạn sông Bé đến Thủ Dầu Một, toàn bộ tỉnh Tây Ninh và Long An và vùng đất phía tây thị xã Hà Tiên thuộc Campuchia. Những phe nhóm Khmer chống Việt Nam khác cũng đã sử dụng bản đồ này để tố cáo chính quyền Hun Sen ký những hiệp định về vùng nước lịch sử ký với Việt Nam năm 1982 và hiệp ước biên giới đất liền tháng 10/1985 bất lợi cho nhân dân Campuchia.

    Nội dung những văn bản bản này thật ra không khác gì với những văn bản đã ký với Pháp trước đó: vùng biên giới đất liền ghi lại tỉ mỉ hơn làn ranh đã có dưới thời Pháp thuộc; trên biển hai bên giữ nguyên làn ranh Brévié đã có từ năm 1939. Thật ra vấn đề không phải được hay mất đất và biển mà chỉ giản dị là tâm lý bài Việt Nam đang lên cao trong sinh hoạt của những tổ chức chính trị đối lập với chính quyền Hun Sen. Cũng nên lưu ý trong những văn bản này, Điều cuối cùng ghi: “Trong trường hợp có sự giải thích khác nhau, văn bản tiếng Pháp được lấy làm căn cứ”.

    ReplyDelete
  11. Dưới thời bảo hộ Pháp (1863-1953), các vị vua Khmer đã nhiều lần yêu cầu hay van nài Pháp giao lại lãnh thổ Nam Kỳ cho Hoàng gia Khmer (thư vua Ang Duong gởi cho hoàng đế Napoléon III ngày 25/11/1856, cuộc gặp mặt giữa vua Norodom (cha) và Toàn quyền Đông Dương, tướng de La Grandière, năm 1864). Nhưng người Pháp từ chối bởi một lý do giản dị là chính nhà Nguyễn đã giao phần đất này cho Pháp năm 1862 và sau đó năm 1874 chứ không phải các vua Khmer, hơn nữa khi ký Hiệp ước bảo hộ vương quốc Cambốt năm 1863, hoàng gia Khmer không hề đề cập tới phần lãnh thổ phía nam, mà người Pháp gọi là Cochinchine (miền Nam Việt Nam).

    Văn bản pháp lý nào?

    Tài liệu chủ quyền pháp lý mà Tổ chức Khmer Krom dựa vào là “Luật số 49-733 ban hành ngày 04/06/1949 về việc thay đổi quy chế vùng đất Nam Kỳ (Cochinchine) trong Liên hiệp Pháp (Union française)”, theo đó lãnh thổ Nam Kỳ được sát nhập vào lãnh thổ Liên hiệp Việt Nam và không còn là lãnh thổ hải ngoại thuộc Pháp.

    Qua luật này, tổ chức Khmer Krom trách Pháp đã không trao trả Nam Kỳ cho vua Khmer, do đó mỗi năm cứ đến ngày 04/06 họ tổ chức xuống đường biểu tình đòi Việt Nam trả lại đồng bằng châu thổ sông Cửu Long cho Campuchia. Tất cả mọi phương tiện đều được áp dụng, kể cả bạo loạn, trong mục đích tuyên truyền rằng “chính quyền Việt Nam đàn áp sư sãi và tôn giáo”.

    Để gây hận thù dân tộc, tổ chức Khmer Krom còn dựng đứng những tội ác “ghê rợn” của các chính quyền Việt Nam để tố cáo trước dư luận thế giới như : thiêu sống 10.000 người Khmer năm 1945, giết rồi thả hàng ngàn xác người Khmer trôi sông từ 1976 đến 1979, tàn sát hàng ngàn người Khmer tại Trà Vinh và Vĩnh Long từ 1980 đến 1990.. với hy vọng được thế giới hỗ trợ và làm áp lực với Việt Nam trả lại miền Nam cho họ.

    Lý cớ thứ ba là chính trị. Quan sát kỹ, những cuộc biểu tình chống Việt Nam chỉ mạnh lên trước những cuộc bầu cử Quốc hội. Bài Việt Nam có lẽ là mẫu số chung để các tổ chức chính trị tranh thủ sự ủng hộ của quần chúng. Hiện nay, tổ chức chính trị bài Việt Nam mạnh nhất là Đảng Sam Rainsy do ông Sam Rainsy lãnh đạo. Sam Rainsy hiện nay là đối thủ chính trị chính của đương kim Thủ tướng Hun Sen.

    Cho đến một ngày gần đây, dưới sự kích động của đảng Sam Rainsy, chống Việt Nam hiện nay không còn là một chiêu bài tranh cử nữa mà là một chính sách kỳ thị chủng tộc rõ ràng. Để tránh bị mang tiếng thân Việt Nam, nghĩa là chư hầu, Đảng Nhân dân Campuchia của đương kim Thủ tướng Hun Sen còn đi xa hơn khi ban hành những luật lệ siết chặt nhập cư, hạn chế sự đi lại của người Việt Nam trên lãnh thổ Campuchia và trục xuất những người Việt nhập cư bất hợp pháp. Một cách tiệm tiến, chủ nghĩa dân tộc cực đoan của người Kher đang hình thành mà đối tượng là cộng đồng người Việt sinh sống trên lãnh thổ Campuchia, an ninh của họ đang bị đe dọa.

    Thêm vào đó, lãnh tụ đảng Sam Rainsy còn khơi động sự thù hận giữa Việt Nam và Trung Quốc bằng cách đề cao những hành vi ức hiếp Việt Nam của Trung Quốc trên Biển Đông và dành cho người Trung Quốc những ưu đãi về đầu tư cũng như về kinh tế tài chính để loại thương nhân Việt Nam ra khỏi thị trường Campuchia, hay đưa xuống hàng thứ yếu, nghĩa là phải dưới người Khmer.

    ReplyDelete

Most Popular

Most read this month