Trung Quốc đốt nóng quan hệ Việt Nam – Kampuchea?

Trung Quốc đốt nóng quan hệ Việt Nam – Kampuchea?

Thời gian gần đây, một số cơ quan truyền thông sử dụng tiếng Việt thuộc cộng sản Việt Nam và thuộc một số cơ quan, tổ chức phi cộng sản ra sức tuyên truyền để người Việt ghét người Khmer, hay nói đúng hơn là để người dân Việt ghét Kampuchea. Điểm chung của các cơ quan này là gán ghép «bàn tay lông lá của Trung Quốc» vào mối quan hệ Việt Nam Kampuchea. Mục đích của việc truyền thông này là gì? Liệu có sự tác động của Trung Quốc lên mối quan hệ Khmer Việt? Kết quả thu được của lối truyền thông Việt là gì?

Hoàng Oanh - KKN| 

Kampuchea theo Trung Quốc?

Nếu một người nào đó cho rằng Việt Nam theo Trung Quốc hay Việt Nam theo Hoa Kỳ thì lời anh ta có thể có giá trị để xem xét, tuy nhiên, nếu cho rằng Kampuchea theo Trung Quốc, theo Hoa Kỳ, hay theo thế giới Arab thì hoàn toàn không có giá trị để xem xét rằng phát biểu đó là đúng hay sai. Tại sao? Vì Kampuchea là một quốc gia Trung Lập, Đa Nguyên, Đa Đảng, Pháp quyền, và Dân chủ.

«Trung lập», «Đa nguyên», «Pháp quyền», và «Dân chủ» là những phạm trù khá mới mẽ và xa lạ đối với người Việt. Trong lịch sử dân tộc Việt, người Việt chưa bao giờ biết được thế nào là «Trung lập», «Đa nguyên», «Pháp quyền», và «Dân chủ» thực sự, kể cả thời Đệ Nhất Cộng hòa (Ngô Đình Diệm) và Đệ Nhị Cộng hòa (Thiệu Kỳ) của chính quyền Sàigon cũng không hề có «Đa nguyên» hay «Dân chủ» thực sự. Tuy nhiên, Vương quốc Kampuchea, sau Hiệp định Paris năm 1991, đã trở thành một quốc gia có các đầy đủ các đặc điểm của «Trung lập», «Đa nguyên», «Pháp quyền», và «Dân chủ» thực thụ.

Thế nào là «Trung Lập» ? Là một quốc gia không liên minh với bất kỳ quốc gia nào hay trở thành thành viên của bất kỳ liên minh quân sự nào để chống lại nước khác. Hiến Pháp Vương quốc Kampuchea quy định rõ Vương quốc Kampuchea không liên kết quân sự với bất kỳ quốc gia nào và cũng không là thành viên của khối liên minh nào cả. Hơn nữa, Hiến Pháp Kampuchea quy định rõ, Kampuchea không là mối đe dọa đến an ninh của bất kỳ quốc gia nào. Vì là một quốc gia Trung Lập, Kampuchea không kết thân với bất kỳ quốc gia nào và không đe dọa bất kỳ quốc gia nào. Việc khẳng định Kampuchea kết thân với Trung Quốc là hoàn toàn vô lý. Kampuchea không cần và cũng không thể liên kết quân sự với bất kỳ quốc gia nào.

Thế nào là «Đa nguyên», «Đa Đảng»? Hiến Pháp Kampuchea quy định, mọi người đều có quyền thành lâp hay tham gia đảng phái chính trị của mình. Ở Kampuchea không hề có «Đảng chống đối» hay «Đảng chống chính quyền». Nếu một đảng hay liên minh hai hay nhiều hơn hai đảng nào đó có số ghế cao nhất trong Hạ Viện (và thông thường có ứng cử viên được bầu làm Thủ Tướng) được gọi là đảng cầm quyền hay liên minh đảng cẩm quyền. Trong khi đó, một đảng hay liên minh hai hay nhiều hơn hai đảng nào đó có ghế trong Hạ Viện nhưng với tỷ lệ ít (so với đảng hay liên minh đảng còn lại, và ứng cử viên của nhóm này không được giữ chức vụ Thủ Tướng) thì được gọi là «đảng đối lập», hay nói đúng hơn là «Đảng không thuận». Tại sao gọi là «đảng không thuận» hay «liên minh đảng không thuận»? Vì họ không liên minh với đảng cầm quyền hay không tham gia vào liên minh đảng cầm quyền. Nghị sĩ thuộc đảng đối lập hay liên minh đảng đối lập là nghị sĩ có đầy đủ các quyền của thành viên cơ quan Lập Pháp.

Đảng đối lập không phải là đảng chống đối hay phá hoại!

Mọi quyết sách của Vương quốc Kampuchea đều do Chính phủ chuẩn bị và giới thiệu Hạ Viện, Hạ viên xem xét thông qua và trình thượng viện hoặc bác bỏ, Thượng viên xem xét thông qua hoặc bác bỏ, và cuối cùng là trình Quốc vương xét duyệt ban bố hoặc bác bỏ.

Như vậy, nếu nói Kampuchea theo Trung Quốc là nói chung chung, không có ý nghĩa cụ thể. Nếu nói cụ thể thì có thể nói «Đảng cầm quyền theo Trung Quốc» hay «Đảng đối lập theo Trung Quốc». Nếu đảng cầm quyền hay đảng đối lập hiện tại theo Trung Quốc thì cũng không thể nói Kampuchea theo Trung Quốc. Tại sao? Nếu cơ quan Hành pháp (Chính phủ) có những quyết sách thân với Trung Quốc thì những quyết sách đó phải thông qua Hạ viện, Thượng viện, tại đó nếu các quyết sách trên không có lợi ích cho quốc gia, dân tộc thì đương nhiên sẽ không được thông qua.

Nếu khẳng định đảng đối lập thân Trung Quốc thì càng không thể có chuyện Kampuchea thân Trung Quốc. Các kiểu nhà nước thường có một đặc điểm trung là Tam Quyền Phân Lập, tức ba cơ quan quyền lực có quyền ngang nhau và độc lập với nhau. Tuy nhiên, đối với vấn đề đối nội, đối ngoại, phát triển kinh tế, xã hội, … thì cơ quan chịu trách nhiệm nhiều nhất là cơ quan Hành Pháp. Đảng đối lập không nắm cơ quan hành pháp thì làm sao có thể đưa ra các quyết sách thân Trung Quốc?

Đó là đa đảng, Kampuchea còn là quốc gia đa nguyên và dân chủ.

Người dân Kampuchea có quyền và có điều kiện thể hiện quyền của mình. Nếu cơ quan nhà nước ban hành các quyết sách ảnh hưởng đến lợi ích của người dân (dù là một nhóm nhỏ) thì người dân (thậm chí là một nhóm nhỏ) cũng có quyền biểu tình và gửi yêu cầu các cơ quan nhà nước thay đổi các quyết sách đó. Người dân có các hội đoàn độc lập, và đương nhiên, họ có các đảng phái chính trị bảo vệ lợi ích của mình. Như vậy một chính sách nào đó không được sự thống nhất cả người dân thì chính sách đó không thể thực hiện được.

Nếu có việc Kampuchea theo Trung Quốc thì đó là quyết định của người dân Kampuchea. Và là một quốc gia độc lập, có quyền tự chủ và quyền dân tộc tự quyết, người dân Kampuchea có quyền chọn con đường của mình.

Có thể nói tóm gọn lại rằng, việc Kampuchea thân Trung Quốc hay thân Hoa Kỳ (nếu có) là quyết định của Kampuchea.

Khi mà ở Việt Nam, người người, nhà nhà hát khúc đồng dao «Trăng Nga tròn hơn Trăng Mỹ, đồng hồ Thụy Sĩ sao bằng đồng hồ Chai-na» thì cả thế giới (Tây phương) không ai buồn quan tâm đến Việt Nam cả. Đơn giản, đó là quyền của Việt Nam. Thực chất đường lối ngoại giao của Việt Nam là đường lối đu dây, hay nói trắng ra và hơi khiếm nhã thì Việt Nam thực hiện chính sách ngoại giao của con điếm.


Năm 1945, không phải vô duyên vô cớ mà Hồ Chí Minh copy mấy dòng đầu tiên của Bản tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ. Hồ Chí Minh làm thế không gì khác là muốn tranh thủ sự ủng hộ của Hoa Kỳ, hay nói môm na là muốn bám vào Hoa Kỳ để được độc lập. Tuy nhiên, do Hoa Kỳ phớt lờ Hồ và ủng hộ Pháp, chính quyền Hồ kết thân với Mao và thông qua Mao xin được viện trợ từ Soviet. Cuối thập nhiên 1970, khi mà thế giới đang trong đỉnh điểm của chiến tranh lạnh và có mâu thuẫn giữa Soviet và Trung Quốc thì Việt Nam không ngần ngại khắc vào cương lĩnh đảng «Trung Quốc là kẻ thù số một». Khi đó, Việt Nam quay mặt một trăm tám mươi độ với Trung Quốc và dính với Soviet như cây tầm gửi đu cây. Đến đầu thập niên 1990, khi mà Soviet tan rã, chiến tranh lạnh kết thúc, Việt Nam lật đật ngồi hỏa xa lên Tứ Xuyên để xin được ký «Hiệp ước Thành Đô». Từ kẻ thù, Việt Nam quay lại một trăm tám mươi độ, biến Trung Quốc thành «bốn tốt». Ngày đi ăn với Trung Quốc, đêm nằm với Mỹ - bọn đế quốc, kẻ thù không đội trời chung với Việt Nam hơn hai mươi năm trước.

Như vậy, chính sách đối ngoại đu dây của Việt Nam có gì khác hơn gái điếm. Thông thường các cô gái mại dâm khôn ngoan không bao giờ quay mặt với khách. Nhưng Việt Nam còn dốt hơn gái điếm!

Tại sao  Trung Quốc làm mưa làm gió ở biển Hoa Nam

Có hai lý do:
Là một cường quốc mới nổi, Trung Quốc muốn khẳng định mình với thế giới.
Trung Quốc muốn Việt Nam bỏ đường lối ngoại giao đu dây, cái đường lối dành cho gái điếm và chọn duy nhất Trung Quốc hoặc Hoa Kỳ vì một núi không thể có hai hổ và một người không thể thờ hai chủ.
Như vậy, muốn được yên với Trung Quốc, Việt Nam phải chấm dứt ngay đường lối ngoại giao đu dây và lựa chọn hoặc là Trung Quốc, hoặc là Hoa Kỳ.

Tại sao lại phát sinh các vấn đề  Khmer Việt?

Vấn đề Khmer Việt hiện nay gồm: Vấn đề biên giới hải đảo, vấn đề người Việt nhập cư trái phép và vấn đề Kampuchea Krom.

Các vấn  đề hoàn toàn không lạ lẫm đối với người Khmer (cả người Khmer ở Kampuchea lẫn người Khmer Kampuchea Krom) vì nó tồn tại từ bấy lâu nay chứ không phải mới phát sinh. Người Việt cảm thấy bối rồi  vì người Việt chưa bao  giờ tiếp cận với những thông tin này. Sau hơn 40 năm lãnh đạo đất nước (tính từ năm 1975), chính quyền cộng sản Việt Nam ra sức tuyên truyền, bưng bít thông tin để người dân Việt tin tưởng vào một hình ảnh «Việt Nam thân thiện» (ảo) và «Mối quan hệ tốt đẹp» (chưa bao giờ có) giữa Việt Nam và các quốc gia láng giềng.

Riêng mối quan hệ Kampuchea Việt Nam, chưa bao giờ có sự bình đẳng, hòa bình và hữu nghị.

Từ thế kỷ XXVII, người Việt chưa bao giờ từ bỏ bản chất bành trướng của mình. Không chỉ đối với Kampuchea mà còn đối với Lào. Đối với Kampuchea, người Việt luôn thay đổi các chính sách từ đánh chiếm sang lấn chiếm rồi xâm thực, … qua các thời Gia Long, Minh Mệnh, Hồ Chí Minh, … Việt  chưa bao giờ từ bỏ bản tính của mình. Trong lịch sử hiện đại, sự kiện ngày 7 tháng giêng năm 1979 mở đầu cho 10 năm trực tiếp đô hộ và hơn hai mươi lăm năm Việt đặt chế độ thực dân hóa lên đất Kampuchea.

Khoảng thời gian từ năm 1979 đến năm 1989 (đúng hơn là 1991), Việt trực tiếp cai trị Kampuchea. Việt dựng lên một chính quyền gọi là «Kampuchea Dân chủ Cộng hòa» và tự mình bố trí các vị trí lãnh đạo. Ở tất cả các cơ quan công quyền, từ cấp trung ương đến địa phương đều có mặt chuyên gia của Việt. Ở vùng nông thôn Kampuchea, hễ 1km đường bộ là có một trạm kiểm soát cắm cờ đỏ sao vàng.

Cũng trong thời gian đó, Việt ký với chính quyền do mình dựng lên những Hiệp định về biên giới, những Hiệp định này hoàn toàn không có lợi cho Kampuchea và cũng trong thời gian này, vùng biển đặc quyền của Kampuchea xung quanh Koh Tral (Việt gọi là Phú Quốc) cũng bị cắt cho phía Việt Nam.

Đương nhiên, nếu là người nghiên cứu về chính trị, chúng ta không được phép trách ông Hun Sen hay bất kỳ người Khmer nào của chính quyền Kampuchea Dân chủ Cộng hòa, bởi khi đó thế giới đang trong thời kỳ chiến tranh lạnh, không có cộng đồng quốc tế nào quan tâm đến Kampuchea và đặc biệt, Kampuchea không có năng lực để khán cự lại với Việt Nam.

Tuy nhiên, người dân và các nhà chính trị Kampuchea không phải chấp nhận mất mát các lợi ích về chủ quyền, lãnh thổ, lợi ích kinh tế, chính trị của mình.

Năm 2015, tức gần 25 năm sau ngày Kampuchea được cộng đồng quốc tế quan tâm. Người Khmer đã xây dựng được năng lực và các tiềm lực về kinh tế, quân sự, chính trị, ngoại giao, và đương nhiên, cũng đã đến lúc giải quyết các vấn đề còn tồn tại.

Cũng có thể nói rằng, mối quan hệ căng thẳng giữa Trung Quốc và Việt Nam cũng là một lợi thế về chính trị và ngoại giao giúp Kampuchea thoát khỏi cái bóng của Việt Nam và đối thoại xòng phẳng với Việt Nam trong danh nghĩa là hai nước láng giềng. Và việc Kampuchea có «thân» với Trung Quốc để tạo thế tương quan với Việt Nam cũng là một điều hoàn toàn có thể chấp nhận. Nếu dùng ngôn ngữ chính trị của Việt Nam thì việc Kampuchea thân với Trung Quốc (nếu có) là một sự «tranh hủ» xu hướng quốc tế mà thôi!

Có thể những người tuyên bố rằng  «Kampuchea đang bị Trung Quốc giật dây» phát biểu vì mục đích chính trị hay lợi ích kinh tế nào đó đi chăng nữa thì điều đó cũng hoàn toàn không có lợi ích gì cho người Việt vì ngoài nói, Việt Nam không thể làm được gì hơn cả. Và việc Việt Nam muốn kích động tinh thần dân tộc ở người Việt và từ đó tổ chức một cuộc chiến đối với Kampuchea như hồi năm 1978 1979 (Tự giết người Việt ở Ba Chúc và viện lý do đó để đánh Kampuchea) không còn hiệu lực áp dụng trong thời kỳ này nữa.

Kampuchea có đủ khôn ngoan để giải quyết mọi vấn đề một cách hòa bình và phát triển.


Những mâu thuẫn tồn tại giữa Kampuchea và Việt Nam thực chất là những vết thương, hãy chấp nhận sự thật và cùng giải quyết vết thương đó để xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa hai dân tộc. Về đất Kampuchea Krom, chúng tôi luôn tiếc nuối đất cha ông, nhưng chúng tôi không hoài niệm mà quên đi tương lai. Những thứ lấy được mới có giá trị. Riêng những người Việt, hãy chấp nhận sự thật và cùng nhau giải quyết, đừng mang hình ảnh Trung Quốc che đậy vết thương vốn có. Đây là vấn đề của Kampuchea và Việt Nam, không có mối liên hệ với bên thứ ba nào cả. Và các bạn truyền thông Yuon, hãy thôi lừa dối dân tộc các bạn.

Chương xxiii Khmer Krom hay Khmer Cochinchine

Chương xxiii Khmer Krom hay Khmer Cochinchine

Quan lại của triều Uddong và sau này là Phnom Penh là người dùng từ «Khmer Krom» (ខ្មែរក្រោម) đặt cho người Khmer sống ở khu vực hạ nguồn sông Mekong. Riêng đối với người Khmer Krom thì người Khmer ở Phnom Penh là «Khmer Leur» (ខ្មែរលើ) do Phnom Penh nằm ở phía trên dòng chảy của con sông Mekong.

Khmer Krom chính là người Khmer đầu tiên trong lịch sử Khmer được nước ngoài biết đến. Khmer Krom chính là hậu duệ trực tiếp của người Khmer Founan (cư dân của vương quốc mà người Tầu gọi là Founan và Yuon gọi là Phù Nam), vương quốc đầu tiên của người Khmer được người nước ngoài, đặc biệt là người Tầu, biết đến. Vùng châu thổ sông Mekong chảy ra biển chính là cái nôi của vương quốc Founan. Chính trên vùng đất này, hồi thế kỷ thứ vi, vua Kaundin Varman (កៅណ្ឌិន្យ​វរ្ម័ន) đã cho đào hệ thống kênh rạch thủy lợi dài 200 km. Nơi này vẫn còn nổi tiếng đến tận ngày nay, và được Yuon gọi là «Đồng Tháp Mười», tức cánh đồng có mười ngọn tháp bởi người Yuon thấy vùng đất này có một ngôi đền (tháp) lớn có 10 đỉnh, được vua Kaundin Varman xây dựng theo kiến trúc Brahma giáo.

Đất đai mà người Khmer Krom sinh sống được gọi là «Kampuchea Krom». Đất Kampuchea Krom, mà ngày nay là miền nam Việt Nam có diện tích kéo dài từ phía bắc thành phố Prey Nokor (ព្រៃនគរ - có người Khmer đọc chạy là Prey Angkor - ព្រៃអង្គរ) (ngày nay Yuon gọi là Sài Gòn hay Hồ Chí Minh) đến mũi Tirk Khmau (ទឹកខ្មៅ - Yuon gọi lệch chữ «Khmau» thành «Kha Mau» rồi thành «Cà Mau») ở phía nam. Từ năm 1859 đến năm 1949, lãnh thổ này nằm dưới sự cai trị của người Pháp, ngang bằng một tỉnh của Pháp và được gọi là «Cochinchine française » (Yuon đọc là «Cô-xăng-xin» ). Từ đó, người Khmer Krom cũng được gọi là «Khmer Cochinchine».

Do hiểu lầm, cũng có thể do cố ý, một số người gọi vùng đất này là «Cô Chín Xin» trong tiếng Yuon có nghĩa là cô con gái thứ 9 của chúa Yuon xin vùng đất này, đây chỉ là sự cố ý lý giải nhằm mỉa mai hoặc đơn giản là nhắc lại sự kiện vua Chey Chettha đệ Nhị (ជ័យជេដ្ឋាទី២) trao quyền cho Yuon được vào lập sở buôn bán ở Prey Nokor theo lời cầu xin của bà Ngọc Vạn chứ hoàn toàn không đúng.

Ông Léonard Aurousseau trong cuốn Sur le nom de la Cochinchine, hồi năm 1924 có giải thích rõ ràng về nguồn gốc tên gọi Cochinchine.

Theo ông này, từ Cochinchine có nguồn gốc từ từ «Jiaozhi» (交趾 tức Giao Chỉ) của tiếng Tầu. Chúng ta cũng biết rằng người Tầu và người Yuon chưa bao giờ là bạn của nhau được lâu cả. Trước đây, lãnh thổ của người Yuon nằm trong lãnh thổ của Trung Quốc, nơi mà hiện nay là sông « Yángzǐ Jiāng » (扬子 Dương Tử Giang) kéo dài đến tỉnh Yunnan (Vân Nam). Mỗi khi người Tầu bắt được người Yuon, người ta sẽ trói tay người Yuon chéo lại vào ngón tay và đưa về nơi của họ. Về đến nơi, người ta tháo dây trói và phát hiện ngón tay của các tù binh đều bị cong vẹo do bị trói trong nhiều ngày. Người Tầu gọi những người này là « Jiaozhi » (Giao Chỉ) tức «ngón tay cong vẹo» và gọi lãnh thổ của người này là Jiaozhiguo» (交趾国 Giao Chỉ Quốc). Người Yuon không hề nhắc đến việc này, họ giải thích rằng «Giao Chỉ» là do người Yuon sống quầng cư, kết hôn trong huyết thống nên bị dị tật bàn chân có sáu ngón (có người nói là ngón chân bị vẹo như củ gừng), khi người Tầu đến thấy đặc điểm này mới gọi là «Bàn chân cong vẹo».

Từ xa xưa, người Tầu đã biết làm thương nghiệp theo đường hàng hải với nước ngoài. Những người Arab đến Trung Quốc theo eo biển Malacca đã đánh dấu vùng «Jiaozhi» trên bản đồ, và để rõ hơn nữa, họ viết là «Kawci-in-cina» có nghĩa là Kawci ở Trung Quốc. Điều này cũng không sai vì từ xa xưa, người Trung Quốc luôn xem đất Yuon là một tỉnh (Châu) của mình.

Ở Châu Âu, những người Tây Ban Nha, những người nổi tiếng về nghề hàng hải đã lấy tên mà người Arab đặt viết trên bản đồ hàng hải của mình. Người Tây Ban Nha viết tên vùng đất đó là «Quauchynchina», cuối cùng người Pháp viết lại tên vùng đất này là «Cochinchine». «Jaozhiguo» từ tiếng Tầu trở thành «Cochinchine» trong tiếng Pháp.

Người Yuon được người Tầu gọi là «Yue», nhưng họ tự gọi bản thân là «Vi et», người Pháp viết «Vi et»«Viêt» và có «Việt» như ngày nay. Người Yuon, có lãnh địa ở Trung Hoa di cư xuống phía nam, xuống đến lưu vực sông Hồng vào năm 275 trước Tây lịch. Họ bị người Tầu đô hộ hết 1000 năm. Ban đầu, người Yuon tự gọi vương quốc của mình là «Giao Chỉ» là từ đọc kiểu Yuon của từ «Ngón tay vẹo» của tiếng Tầu. Đến năm 968, Yuon thoát khỏi sự cai trị của người Tầu thì tự gọi quốc gia mình là «Đại Cồ Việt» và sau đó, đến năm 1054 thì gọi là «Đại Việt». Đến năm 1804, vua Gia Long cầu xin Trung Quốc cho được đổi tên nước là «Nan Yue» và đọc theo tiếng Yuon là «Nam Việt», có nghĩa là người Yue ở phương Nam. Để tránh không cho người Yuon nhớ đến cội nguồn của mình ở phương Bắc đã bị người Tầu cướp lấy, vua Tầu không đồng ý cho dùng từ «Nan Yue» mà ban cho tên là «Annan», đọc theo tiếng Yuon là «An Nam», tức phía Nam an vui, thái bình (Theo Trần Thế Anh trong cuốn in Frontières du Viêt Nam sous la direction de P. B. Lafont), và «Annan» này cũng đã được người Tầu dùng để gọi vùng đất này hồi từ năm 1175.

Năm 1672, chiến tranh Trịnh Nguyễn chia đất nước của người Yuon thành hai vùng «Tonkin» và vùng ở phía nam là «An Nam». Ở phía bắc dưới sự cai trị của vua Lê và chúa Trịnh là vùng «Tonkin» (Đọc là Tông-Câng) có nguồn gốc từ chữ «Đông Kinh» trong tiếng Yuon là Thủ đô của Yuon hồi thời nhà Lê, được xây dựng hồi năm 1428.

Phía nam dưới sự cai trị của chúa Nguyễn, tự gọi tên nước là «Đại Nam». Tuy nhiên, không ai dùng tên này cả. Người ta quen gọi là «An Nam» hay «Jiaozhe», hay «Cochinchine». Thành phố Huế được chọn làm kinh đô hồi năm 1802. Bọn vua chúa nhà Nguyễn không bao giờ quên chính sách giống nòi của mình là «Nam Tiến», tức đi về hướng Nam. Chính sách, hay nói đúng hơn là bản tính này được giống dân này hình thành từ năm 1025. Họ đánh người Cham và chiếm được đất Champa. Thành phố Vijiya, thủ đô của người Cham, bị Yuon đánh tan hồi năm 1471, người Cham ở đây phải chạy bỏ xứ, những ai không chạy kịp thì bị giết sạch. Đến năm 1832, tất cả những gì còn sót lại của người Cham đều bị người Yuon tàn phá cả. Họ gọi đây là «bình định» (cũng bởi lý do đó mà người Yuon đã gọi một tỉnh mới được dựng lên trên đất của người Cham là Bình Định, tức đã diệt tận gốc người Cham). Champa bị xóa bỏ hoàn toàn.

Sau khi vương quốc Cham bị tiêu diệt, người Khmer bắt đầu đối mặt trực tiếp với người Yuon. Biên giới phía bắc của người Khmer giáp với thành phố Phan Rí (Yuon gọi là tỉnh Phan Thiết). Vương quốc Khmer có 03 khet (tỉnh) giáp với Cham (sau này là Yuon) gồm:  Rong Domrey (រោងដំរី Yuon gọi là Tây Ninh), Kampup Srokatrey (កំពប់​ស្រកាត្រី Yuon gọi là Biên Hòa), và Barea (បារា Yuon gọi là Bà Rịa). Tuy nhiên đường biên giới này không thể cản lại máu «Nam Tiến» trong tiềm thức của người Yuon. Các hiệp ước về biên giới  mà người Cham ký với người Yuon cũng không thể giúp người Cham thoát khỏi cảnh mất nước. «Biên giới» có nghĩa khác nhau đối với nhiều dân tộc khác nhau. Đối với:

-         Người Châu Âu, biên giới là một đường phân chia lãnh thổ của hai quốc gia và không có một quốc gia nào có quyền vượt ra đường phân chia đó.
-         Người Khmer, nơi nào có người Khmer sinh sống là đất của người Khmer.
-         Người Yuon, nơi nào mà người Yuon cai trị được, đó là biên giới của họ.

Người Yuon mở rộng lãnh thổ của mình bằng cách chiếm lấy đất đai của người Khmer với hai cách: (1) chiếm đất người Khmer rồi cho người Yuon đến sinh sống và (2) cho người dân Yuon đến sinh sống trên đất Khmer và dần dà, chúng chờ cơ hội chiếm luôn đất Khmer.

Người Yuon vào sinh sống trên đất Khmer như nước thấm đất, họ không bao giờ rời bỏ nơi mà họ thâm nhập vào được và họ tránh những nơi vấp phải sự khó khăn. Dần dà, người Yuon sống đầy trên đất Khmer, nhưng không toàn bộ mà ở rãi rác như da báo (ở từng cụm, từng cục). Khi nào họ làm chủ được vùng đất nào thì họ sẽ thực hiện chính sách Yuon hóa người Khmer.

Người Yuon tràn vào đất Khmer lần đầu tiên vào năm 1622, khi đó vua Khmer là Chey Chettha đệ Nhị (ជ័យ​ជេដ្ឋា​ទី២) cho phép Yuon được tạm trú ở khu vực Prey Nokor ngày nay, cho phép Yuon được quyền lập thương cảng và thu thuế. Đó là bước đầu của tiến trình chiếm lấy đồng bằng sông Donnay cho sát nhập vào lãnh thổ của Yuon. Donnay được Yuon gọi lệch là Đồng Nai.

Người Yuon bắt đầu xâm chiếm đất Khmer bằng vũ lực lần đầu tiên vào năm 1658 với lý do là người Khmer đánh chiếm đất đai của Yuon (tức đất Donnay). Kể từ đó người Yuon không bao giờ ngừng nghỉ công cuộc đánh chiếm đất của người Khmer. Tuy vậy, đến năm 1802, srok Préah Trapeang vẫn thuộc sự quản lý của người Khmer do trong năm này, Vua Yuon là Gia Long có gửi sớ xin vua Khmer không thu thuế người Yuon sống ở đó do người Yuon ở Préah Trapeang có công giúp Nguyễn Ánh đánh thắng quân Tây Sơn. Mãi đến thời vua Minh Mệnh (1820 1841), vùng Préah Trapeang vẫn là đất đai của người Khmer do tỉnh trưởng thời bấy giờ là Chauhvay Kouy bị Yuon cắt đầu.

Minh Mạng cũng là vua Yuon đưa công chúa «Ang Mey» (អង្គ​ម៉ី) lên làm vua của Vương quốc Khmer vào năm 1838, tuy nhiên mọi việc cai trị đất nước đều nằm dưới quyền của tướng Trương Minh Giãng. Do sự cai trị hà khắc của tên Trương Minh Giảng, vào năm 1840, người Khmer ở khắp cả nước nổi dậy đấu tranh. Ang Duong (អង្គដួង), dưới sự hỗ trợ của quân Syam đưa quân về đánh với Yuon vào năm 1842 và giành thắng lợi vào năm 1445. Préah Ang Duong lên làm vua và được sự thừa nhận từ vua Yuon và vua Syam. Khi đó Yuon đành rút quân khỏi vương quốc Khmer, tuy nhiên bọn chúng vẫn không chịu rút khỏi Kampuchea Krom.

Đến năm 1859, Pháp đánh chiếm xứ Yuon và Kampuchea Krom. Ý đồ của Pháp là tìm con đường ở phía Nam để giao thương với Trung Quốc. Xứ Yuon, trước kia bị chia cắt làm hai đàng và được Gia Long thống nhất lại bị Pháp chi cắt làm hai xứ là Tonkin (Bắc Kỳ) và Cochinchine và có thủ đô là Huế. Riêng xứ Kampuchea Krom được Pháp đặt tên là Hạ Chochichine hay Cochinchine phía dưới (Basse-Cochinchine). Đến năm 1885, Pháp đặt ách cai trị xứ Yuon và gọi xứ Cochinchine là Annam. Kampuchea Krom dưới sự cai trị của Pháp được gọi là Cochinchine française. Xứ Khmer dưới quyền bảo hộ của Pháp hồi năm 1863.

Người Pháp thấy ở Kampuchea Krom có người Yuon ở lẫn với người Khmer, đặc biệt là ở phía bên trái sông Mekong và không có biên giới cụ thể. Người Pháp không ngần ngại vẽ đường từ Rong Domrey (រោងដំរី - Yuon gọi là Tây Ninh) đến tỉnh Peam (ពាម - Yuon gọi là Hà Tiên) làm đường biên giới với vương quốc Khmer mà không ngó ngàn đến người Khmer đang sinh sống trên vùng đất đó cũng như sự phản đối của vua chúa Khmer.

Trong mối quan hệ giữa Khmer, Yuon và Pháp, do chấp nhận làm tay sai và bản tính xu nịnh nên người Yuon chiếm được cảm tình của người Pháp. Có thể nói trắng rằng, trong mối quan hệ Khmer Pháp Yuon, người Pháp luôn dành mọi lợi ích cho người Yuon. Đô đốc Doudart de Lagrée và Thống đốc Cochinchine (tức Kampuchea Krom) là Le Myre de Vilers và Cha cố Miche ở srok Khmer còn cố gắng chiêu dụ người Yuon cho người Yuon vào ở đầy đất  Khmer. Việc Pháp đặt tên các địa phương và ghi tên các địa phương trên bản đồ cũng viết theo kiểu tên Yuon gọi, măc dầu trước đó các địa danh này đều có tên bằng tiếng Khmer. Việc cố ý làm như vậy cho thấy Pháp cố ý sắp xếp mọi thứ để dành cho Yuon. 21 tỉnh của người Khmer thời đó gồm:

1.      Kampong Krabei                                          កំពុង​ក្របី            Bến Nghé - Sài Gòn
2.      Chheuteal Muoy Derm                                ឈើទាល​មួយ​ដើម        Thủ Dầu Một
3.      Rong Domrey                                               រោងដំរី                 Tây Ninh
4.      Kampup Srokatrey                                      កំពប់​ស្រកាត្រី     Biên Hòa
5.      Prey Nokor                                                   ព្រៃនគរ                Gia Định
6.      Barea                                                              បារា                     Bà Rịa
7.      Koh Hong                                                      កោះហុង              Gò Công
8.      Kampong Kor                                               កំពុងគោ              Tân An
9.      Peam Mesor                                      ពាមមេស             Mỹ Tho
10. Kampong Rirsey                                          កំពុង​ឫស្សី           Bến Tre
11. Long Haor                                                     លង់ហោរ             Long Hồ Vĩnh Long
12. Préah Trapeang                                            ព្រះត្រពាំង           Vĩnh Bình Trà Vinh
13. Phsar Daek                                                    ផ្សារដែក              Sa Đéc
14. Mort Jrouk                                                    មាត់ជ្រូក              Châu Đốc
15. Peam                                                              ពាម                     Vàm Hà Tiên
16. Kramoun Sor                                                ក្រមួនស              Rạch Giá
17. Peap Barach                                                  ពាប​បារ៉ាច           Long Xuyên
18. Prek Rirsey                                                   ព្រែកឫស្សី           Cần Thơ
19. Basak hay Srok Khleang                             បាសាក់ ស្រុកឃ្លាំង       Sóc Trăng
20. Polleav                                                           ពល់លាវ             Bạc Liêu
21. Tirk Khmau                                                   ទឹកខ្មៅ                 Cà Mau

Ở Kampuchea Krom, người Pháp trực tiếp quản lý mọi vấn đề về hành chính từ tỉnh trưởng đến trưởng tòa án, cảnh sát, hiệu trưởng trường tiểu học, … tất cả đều là người Pháp. Xét về luật pháp của chính quyền Pháp thì dường như Khmer Krom có quyền lợi ngang hàng với Yuon nhưng kỳ thực không phải thế. Người Khmer, dưới chế độ Pháp không được học hành và không có cơ hộ hơn người Yuon. Ở mỗi tỉnh, người Khmer đều có một trường tiểu học như người Yuon, tuy nhiên không có trường trung học hay đại học dành cho người Khmer. Chỉ có một trường trung học duy nhất ở Kampuchea Krom là trường «Pétrus Ký» được thành lập dành cho Yuon và giảng dạy bằng hai thứ tiếng Yuon và Pháp. Trường trung học «Chasseluop Laubat» ở Prey Nokor thì dành cho con em người Pháp. Trường trung học tư thục Catholic «Taberd» cũng là cơ sở giảng dạy tiếng Yuon Pháp. Chung quy mà nói, sau người Pháp cũng chỉ có người Yuon quản lý các cơ quan nhà nước như: Phó tỉnh trưởng, quận trưởng, … Toàn lãnh thổ Kampuchea Krom có hơn 100 quận trưởng, và chỉ có duy nhất một quận trưởng là người Khmer là ông Thach Pruhm (năm 1964) là quận trưởng quận Kampong Spean tỉnh Prek Rirsey do ông có học tiếng Pháp và cả tiếng Yuon.

Không thừa nhận sự thiên vị của mình, Pháp rêu rao rằng người Khmer lười nhác, không thích học.

Năm 1949, Quốc hội cộng hòa Pháp thông qua việc thành lập Liên Bang (Etats Associés) bao gồm: Khmer, Lao, và Yuon. Pháp cho nối Tonkin (Bắc Kỳ), Annam và Cochinchine lại thành một quốc gia gọi là «Việt Nam», mặc dầu lúc đó người Khmer ở Kampuchea Krom, ở Kampuchea và ở Pháp đã có nhiều hoạt động phản đối, đương cử như ông Thon Uk đã có diễn văn phản bác đạo luật tại quốc hội Pháp nhưng luật này vẫn được thông qua. Kampuchea Krom chính thức mất từ tay người Khmer, người Khmer Krom, từ một dâ tộc bản địa, làm chủ vùng đất cha ông trở thành người dân tộc thiểu số, không hề có một chút quyền hạn nào trên chính mãnh đất của mình.

Năm 1954, Hội nghị quốc tế tại Genève phân chia Việt Nam thành hai miền là Bắc Việt và Nam Việt. Khi đó, Pháp rút hoàn toàn khỏi Đông Dương. Lãnh thổ Kampuchea Krom thuộc về Nam Việt Nam. Về chính sách của chính quyền Nam Kỳ đối với người Khmer rất đơn giản: Không có người Khmer nào trên lãnh thổ Việt Nam, ngoại trừ vài người là nhân viên của Đại sứ quán chính quyền Phnom Penh tại Prey Nokor. Các trường tiểu học Khmer được xây dựng ở khắp các tỉnh dưới thời Pháp đều bị chính quyền Yuon Nam xóa bỏ. Cơ sở giáo dục của người Khmer bị thiệt hại hết sức nặng nề, những cơ sở còn sót lại là các chùa Khmer, vì nó vừa là cơ sở giáo dục, vừa là cơ sở tôn giáo và là nơi gìn giữ văn hóa, bản sắc dân tộc Khmer.

Năm 1975, chính quyền Bắc Việt của Hồ Chí Minh đánh thắng chính quyền Nam Việt, khi đó đã không còn sự hậu thuẩn của Hoa Kỳ. Việt Nam lại một lần nữa được thống nhất và được đặc tên là «Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam».

Chính quyền Việt Nam mới này thừa nhận chính thức rằng Việt Nam có 54 dân tộc và trong đó có người Khmer. Họ cũng cho các dân tộc (mà họ gọi là dân tộc thiểu số) này có những quyền lợi cơ bản. Điều 5 của Hiến pháp Việt Nam 1991 có quy định: «Mỗi dân tộc có quyền sử dụng ngôn ngữ, chữ viết và gìn giữ các truyền thống của mình cũng như phát triển nền văn hóa của mình».

Người Khmer Krom nhận được một chút ít quyền lợi. Ở các tỉnh có người Khmer sống đông đúc như: Trà Vinh, Sóc Trăng, Cần Thơ đều có chương trình truyền hình phát thời sự và văn hóa bằng tiếng Khmer. Mỗi tỉnh đều có một trường dân tộc nội trú dành cho người dân tộc thiểu số học tập. Âm nhạc, điệu múa và Lakhorn Basak (kịch của người Khmer Krom) được nhà nước quan tâm giúp đỡ cho phát triển. Kết quả là ngày nay có nhiều người Khmer Krom trở thanh Tiến sĩ, Bác sĩ, thầy giáo và nhiều người trở thành cán bộ quản lý các cấp các ngành của trung ương và địa phương. Thậm chí người Khmer còn được làm Đại biểu Quốc hội và có người là Ủy viên Trung Ương Đảng một vị trí danh giá của cán bộ Việt Nam.

Tuy vậy, người Khmer vẫn không có được quyền dân tộc của mình. Về hành chính, người Khmer Krom là người Việt Nam và có dân tộc (hay gọi đúng là sắc dân) Khmer. Việc người ta cho người Việt (hay người Yuon) thành người «Kinh» cũng chẳng có giá trị gì.

Ở Việt Nam, trẻ em phải đi học tiểu học, đây là trách nhiệm của toàn dân để tránh việc người ta không biết tiếng Yuon và chữ Yuon. Riêng người Khmer Krom, khi nhỏ phải học mẫu giáo và tiểu học phải học tiếng Yuon, chữ Yuon, đến khi lớn lên thì có quyền lựa chọn học chữ Khmer như một ngoại ngữ như tiếng Anh hay tiếng Pháp.


Trường dạy chữ Khmer chỉ có ở các chùa, nhưng không phải chùa nào cũng có trường dạy chữ Khmer. Người Khmer học chữ và dạy chữ Khmer do tự ý thức bảo tồn cái gốc của dân tộc. Thiếu giáo trình, thiếu cơ sở dạy, thiếu giáo viên có đủ kiến thức, người Khmer Krom nghèo đói ngôn ngữ của mình. 

Most Popular

Most read this month